Noãn (tế bào trứng) là gì? Vai trò, chức năng, cấu tạo và số lượng

Ở người, noãn là một trong những tế bào lớn nhất với kích thước lên đến 1.2mm. Noãn mang 50% vật liệu di truyền cần thiết, kết hợp với tế bào tinh trùng để tạo nên cá thể mới. Bên cạnh đó, noãn còn là nguồn năng lượng và dưỡng chất cần thiết cho sự phát triển ban đầu của phôi.

Noãn là gì?

Noãn hay trứng là giao tử cái do tế bào sinh dục nữ tạo ra. Trứng được biết đến là một trong những tế bào lớn nhất trong cơ thể con người với đường kính trung bình khoảng 0.1-1.12mm.

Trong quá trình rụng trứng, một trứng trưởng thành sẽ được giải phóng vào giữa chu kỳ kinh nguyệt. Nếu trứng (noãn) được thụ tinh với tế bào tinh trùng, hợp tử này sẽ phát triển thành phôi, sau đó là phôi thai. Tuy nhiên nếu quá trình thụ tinh không diễn ra, trứng sẽ bị thoái hoá và đào thải khỏi cơ thể trong chu kỳ kinh nguyệt.

Noãn là một trong những tế bào lớn nhất trong cơ thể con người, kích thước trung bình đạt 0.1mm
Noãn là một trong những tế bào lớn nhất trong cơ thể con người, kích thước trung bình đạt 0.1mm

Cơ chế tạo thành noãn (tế bào trứng) như thế nào?

Noãn được tạo thành từ các tế bào mầm nguyên thuỷ (primordial germ cells – PGCs). Trong giai đoạn phôi thai, từ tuần thứ 4 đến tuần thứ 6 của thai kỳ, các PGCs di chuyển đến gờ sinh dục và bắt đầu quá trình biệt hóa thành noãn bào. Quá trình này được điều hòa bởi các protein có nguồn gốc từ noãn và tế bào hạt, cùng với các con đường truyền tín hiệu khác nhau ở các giai đoạn khác nhau.

Quá trình sinh noãn bao gồm các giai đoạn như: nang nguyên thuỷ, nang sơ cấp, nang thứ cấp, nang trưởng thành..

Quá trình sinh noãn diễn ra theo các giai đoạn chính:

  1. Giai đoạn nang nguyên thủy: Nguyên bào noãn được bao quanh bởi một lớp tế bào hạt dạng dẹt và được cố định bởi một lớp lá nền. Tại thời điểm này, nguyên bào noãn đang nghỉ ở kì đầu giảm phân I (giai đoạn GV).
  2. Giai đoạn nang sơ cấp: Khi nguyên bào noãn tiếp tục phát triển, tế bào hạt chuyển thành dạng vuông và bắt đầu phân chia, tạo thành một lớp tế bào hạt đa tầng bao quanh noãn.
  3. Giai đoạn nang thứ cấp: Tế bào hạt tiếp tục phân chia và tạo thành nhiều lớp, đồng thời xuất hiện các khoảng dịch trong nang, tạo thành nang có hốc.
  4. Giai đoạn nang trưởng thành: Nang chứa đầy dịch và noãn được bao quanh bởi một lớp tế bào hạt gọi là vỏ noãn. Khi đạt đến kích thước đủ lớn, nang phóng noãn, giải phóng noãn vào ống dẫn trứng.

Sau khi được giải phóng khỏi buồng trứng, noãn di chuyển qua ống dẫn trứng và chờ đợi các tế bào tinh trùng tiềm năng. Nếu noãn gặp tinh trùng sẽ diễn ra quá trình thụ thai tại vòi tử cung, hình thành hợp tử. Hợp tử sẽ di chuyển về buồng tử cung để tìm vị trí làm tổ thích hợp. Ngược lại nếu không gặp tinh trùng, noãn sẽ thoái hoá và cùng niêm mạc tử cung bong ra, đào thải ra khỏi cơ thể trong kỳ kinh nguyệt.

Quá trình phát triển nang noãn diễn ra liên tục mỗi tháng (nếu không mang thai). Ở độ tuổi mãn kinh, không có nang noãn vượt trội xuất hiện khiến quá trình giải phóng trứng không diễn ra. Vì vậy phụ nữ mãn kinh không còn chu kỳ kinh nguyệt.

Quá trình hình thành noãn diễn ra liên tục
Quá trình hình thành noãn diễn ra liên tục

Vai trò của noãn đối với sức khỏe sinh sản nữ

Noãn đóng vai trò quan trọng đối với sức khỏe sinh sản của phụ nữ. Noãn góp 50% vật liệu di truyền để tạo thành cá thể mới khi kết hợp với trứng. Bên cạnh đó, noãn giàu các thành phần tế bào chất giúp cung cấp các chất dinh dưỡng cần thiết cho phôi phát triển.

Trong giai đoạn chờ đợi các tế bào tinh trùng, noãn sẽ giải phóng “các tính hiệu” nhằm thu hút tinh trùng, tạo điều kiện để tinh trùng thụ tinh với noãn. Sau khi thụ tinh, noãn có sự biến đổi các lớp màng trở nên cứng hơn giúp ngăn chặn các tế bào tinh trùng khác thụ tinh, đảm bảo duy nhất một tinh trùng có thể thụ tinh thành công với noãn. Đồng thời các quá trình trao đổi, sinh hóa diễn ra bên trong hợp tử được kích hoạt giúp các tế bào phân chia, phát triển thành phôi thai.

Noãn mang theo bộ gen của mẹ, giúp truyền tải các đặc điểm di truyền cho thế hệ sau. Noãn là một cấu trúc phức tạp với nhiều chức năng thiết yếu cho sự hình thành và phát triển của mầm sống mới như khả năng hoạt hóa chuẩn bị cho thụ tinh, khả năng chống lại đa thụ tinh, ức chế sự chết tế bào sau thụ tinh, hỗ trợ quá trình tái lập di truyền trong nhân…

Do vậy nếu trứng (noãn) chất lượng tốt khả năng tạo ra phôi thai khỏe mạnh, tỉ lệ đậu thai cao, nguy cơ lưu sẩy thai thấp. Những trứng (noãn) chất lượng kém, đặc biệt nhóm phụ nữ trên 35 hay sau điều trị hoá xạ trị làm tăng nguy cơ tạo phôi thai phát triển bất thường về nhiễm sắc thể.

Việc sử dụng trứng (noãn) nhóm phụ nữ trẻ có chất lượng cao hơn, nguy cơ dị tật thai thấp hơn, nguy cơ sẩy lưu thai thấp hơn. Nhờ những tiến bộ của khoa học kỹ thuật hiện tại, việc trữ đông noãn đạt hiệu quả cao, trữ noãn cho nhóm phụ nữ trẻ muốn trì hoãn khả năng sinh con giúp giữ lại số lượng trứng (noãn) có chất lượng để sử dụng nhiều năm sau, khi tuổi phụ nữ lớn, chất lượng trứng (noãn) giảm.

Vai trò của nang noãn và trứng trong điều trị hiếm muộn

Hiện nay, phương pháp điều trị IVF thường quy đang được áp dụng ở hầu hết các trung tâm hỗ trợ sinh sản khác cần đến khoảng 10-15 noãn mới tạo được phôi. Những trường hợp suy buồng trứng sớm hoặc dự trữ buồng trứng thấp khó có thể thu được số noãn lý tưởng trên trong một lần chọc hút noãn. Nếu thu được dưới 5 noãn thì số phôi và tỷ lệ IVF thành công rất thấp.

Do đó, bác sĩ phải kích thích buồng trứng và chọc hút noãn nhiều chu kỳ để gom được số noãn hoặc số phôi như ý. Mục tiêu chính là tạo được nhiều phôi tốt, tăng cơ hội chuyển phôi và tỷ lệ đậu thai.

Trước đây khi các chiến lược gom noãn chưa phát triển, phụ nữ ít trứng thường được điều trị IVF bằng phác đồ kích thích buồng trứng thông thường hoặc dùng thuốc liều lượng mạnh với hy vọng thu được nhiều noãn nhất trong một lần. Nếu tạo phôi thất bại, hay có phôi duy nhất nhưng chuyển thất bại, bệnh nhân được chỉ định làm IVF nhiều lần. Cách can thiệp này có thể khiến người bệnh gặp nguy cơ không có phôi sau lần IVF đầu tiên, chi phí tăng cao do nhiều lần tạo phôi, ảnh hưởng tâm lý căng thẳng người bệnh.

Chức năng của noãn

Noãn mang theo bộ gen của mẹ, giúp truyền tải các đặc điểm di truyền cho thế hệ sau. Noãn là một cấu trúc phức tạp với nhiều chức năng thiết yếu cho sự hình thành và phát triển của mầm sống mới như khả năng hoạt hóa chuẩn bị cho thụ tinh, khả năng chống lại đa thụ tinh, ức chế sự chết tế bào sau thụ tinh, hỗ trợ quá trình tái lập di truyền trong nhân…

Thành phần cấu tạo noãn

Noãn được hình thành từ tế bào mầm và trải qua nhiều hình dạng khác nhau trước khi trưởng thành. Cấu tạo của noãn bao gồm các lớp:

1. Nhân

Nhân noãn được ví như trái tim của noãn, chứa hầu hết các vật liệu di truyền dưới dạng nhiễm sắc thể. Mỗi noãn chứa 23 nhiễm sắc thể. Khi trứng (noãn) kết hợp với tinh trùng, chúng liên kết với 23 nhiễm sắc thể trong tinh trùng để tạo thành phôi có 23 cặp nhiễm sắc thể bình thường.

2. Tế bào chất

Tế bào chất còn được gọi là bào quan, tồn tại giống dạng gel chứa tất cả các tế bào khác quanh noãn. Các hoạt động diễn ra trong tế bào chất nhằm duy trì sự sống và hoạt động bình thường cho tế bào. Trong số các bào quan, ty thể là cấu trúc quan trọng nhất giúp cung cấp hầu hết năng lượng cho tế bào.

3. Zona Pellucida

Zona Pellucida (vùng trong) là màng bao bên ngoài lớp vỏ tế bào trứng (noãn). Cấu trúc màng zona thường cứng. Khi thụ tinh, tinh trùng phải vượt qua lớp màng này để tiếp cận nhân noãn. Vì vậy chỉ những tinh trùng khỏe mạnh và nhanh nhất xuyên qua màng zona để kết hợp với nhân noãn, tạo thành phôi và phát triển thành phôi thai.

4. Corona Radiata

Lớp tế bào thành hình vòng nan hoa Corona Radiata bao quanh màng ngoài zona. Corona Radiata có tác dụng cung cấp protein quan trọng cho tế bào trứng (noãn).

Kích thước của noãn trưởng thành là bao nhiêu?

Trứng (noãn) có đường kính khoảng 0.12mm. Trứng (noãn) của người là tế bào lớn nhất trong cơ thể. Đặc biệt có thể nhìn thấy noãn bằng mắt thường mà không cần sử dụng kính hiển vi hoặc các thiết bị phóng đại hình ảnh khác.

Mỗi buồng trứng có bao nhiêu noãn?

Khi còn là bào thai ở giai đoạn phát triển ban đầu, buồng trứng một bé gái có thể đạt 6 triệu quả trứng. Số lượng trứng (noãn) giảm dần còn 1-2 triệu quả trứng cho đến khi trẻ được sinh ra.

Ở độ tuổi dậy thì, số lượng trứng của mỗi bé gái còn khoảng 300.000-400.000 quả. Giải thích cho hiện tượng này, bác sĩ Thụ cho biết: các bé gái trước khi dậy thì, trung bình mỗi tháng có khoảng 10.000 trứng (noãn) chết đi và không thể phục hồi, dẫn đến số lượng trứng ở độ tuổi dậy thì sụt giảm nhiều so với số trứng (noãn) ở bé gái khi vừa chào đời. Một nghiên cứu cho thấy phụ nữ mất khoảng 1.000 quả trứng non mỗi tháng kể từ khi bắt đầu chu kỳ kinh nguyệt. Theo thời gian, số lượng trứng (noãn) sẽ tiếp tục suy giảm cho đến khi mãn kinh.

Phụ nữ ở giai đoạn mãn kinh chỉ còn lại rất ít hoặc không còn nang trứng (noãn). Số nang trứng (noãn) còn lại đều không có khả năng trưởng thành và trở thành trứng tiềm năng.

Khoảng 1% phụ nữ trải qua thời kỳ mãn kinh sớm (suy buồng trứng sớm). Điều này đồng nghĩa họ sẽ hết trứng trước độ tuổi mãn kinh bình thường.

Tế bào trứng (noãn) phát triển như thế nào?

Vào mỗi chu kỳ kinh nguyệt, dưới sự tác động của hormone kích thích nang trứng FSH, một nhóm khoảng 10-20 nang trứng bắt đầu phát triển. Khoảng ngày 9 chu kỳ kinh nguyệt, chỉ còn một nang trứng (noãn) khỏe mạnh. Số nang trứng (noãn) còn lại bị thoái hóa. Đến ngày 14 chu kỳ, một đợt hormone hoàng thể hóa (LH) xảy ra khiến nang trứng (noãn) trưởng thành và rụng sau khoảng 24-36 giờ.

Bác sĩ Thụ lưu ý thời gian trên được áp dụng với phụ nữ có chu kỳ kinh nguyệt 28 ngày đều đặn. Tuy nhiên không phải mọi trường hợp đều có chu kỳ kinh đều đặn. Vì vậy thời gian trứng (noãn) trưởng thành và rụng có thể chênh lệch.

Các yếu tố ảnh hưởng đến số lượng noãn trong buồng trứng

Có nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng đến số lượng và chất lượng noãn trong buồng trứng, bao gồm yếu tố nội sinh và ngoại sinh, bao gồm:

  • Tuổi tác: Số lượng noãn giảm dần theo tuổi và chất lượng noãn cũng suy giảm rõ rệt sau 35 tuổi, từ sau 40 tuổi, số lượng và chất lượng trứng (noãn) giảm đáng kể, có một số phụ nữ ở độ tuổi này gần như cạn kiệt buồng trứng dù chưa có dấu hiệu mãn kinh.
  • Di truyền: Một số chị em bẩm sinh có ít nang trứng hơn người khác. Bên cạnh đó, nếu gia đình có mẹ, chị, em gái gặp tình trạng mãn kinh sớm thì bạn cũng có nguy cơ tương tự. Rối loạn di truyền ảnh hưởng đến nhiễm sắc thể X là nguyên nhân hay gặp làm suy buồng trứng sớm.
  • Trải qua hóa trị, xạ trị điều trị ung thư liên quan buồng trứng, tử cung, tuyến vú, làm thay đổi số lượng và chất lượng trứng (noãn) trên buồng trứng.
  • Mắc một số bệnh lý phụ khoa hoặc trải qua phẫu thuật như: Khối U lạc nội mạc buồng trứng, cắt buồng trứng do nguyên nhân bệnh lý, bóc tách u buồng trứng gây tổn thương mô buồng trứng, phẫu thuật cắt vòi trứng do nguyên nhân ứ dịch vòi trứng hay thai ngoài tử cung là nguyên nhân hay gặp làm giảm số lượng trứng (noãn) trên buồng trứng.
  • Bệnh lý miễn dịch: viêm tuyến giáp, suy giáp hay cường giáp, tiểu đường, Lupus ban đỏ tự miễn… tác động đến mô buồng trứng gây giảm số lượng hoặc chất lượng trứng (noãn).
  • Dinh dưỡng thiếu cân bằng, không cung cấp đủ dưỡng chất thiết yếu cho cơ thể: suy dinh dưỡng nặng, béo phì, thiếu sắt, calci…. sử dụng các thực phẩm có chứa thành phần gây tăng nguy cơ giảm số lượng trứng nhanh chóng: hợp chất có nhiều đường, nhiều chất bảo quản, sản phẩm hạt nhựa…
  • Lối sống thiếu khoa học: Thường xuyên căng thẳng, thức khuya, hút thuốc lá, uống rượu bia, sử dụng các chất kích thích, gây nghiện..

Một số nghiên cứu cho thấy chỉ số AMH có mối liên hệ mật thiết với khả năng sinh sản của người phụ nữ. Chỉ số AMH giảm dần theo thời gian và tốc độ suy giảm khác nhau. thông thường, xét nghiệm AMH đạt đỉnh vào khoảng 24 tuổi và suy giảm xuống 1.0 vào khoảng 37 tuổi. Bước vào độ tuổi mãn kinh, chỉ số AMH có thể giảm dần cho đến khi không còn có thể đo bằng xét nghiệm.

Lưu ý: Kết quả AMH chỉ có giá trị tại thời điểm thực hiện xét nghiệm. Dự trữ buồng trứng sẽ giảm dần theo thời gian một cách tự nhiên.

Phương pháp xét nghiệm số lượng noãn có trong buồng trứng

Số lượng trứng sẽ giảm dần theo thời gian. Xét nghiệm dự trữ buồng trứng (AMH) kết hợp với các xét nghiệm máu FSH, siêu âm buồng trứng… có thể đánh giá số lượng trứng (noãn) còn lại của bệnh nhân. Xét nghiệm này khảo sát số lượng noãn còn lại tại thời điểm thực hiện xét nghiệm, không có ý nghĩa đánh giá chất lượng trứng.

Một số nghiên cứu cho thấy chỉ số AMH có mối liên hệ mật thiết với khả năng sinh sản của người phụ nữ. Chỉ số AMH giảm dần theo thời gian và tốc độ suy giảm khác nhau. thông thường, xét nghiệm AMH đạt đỉnh vào khoảng 24 tuổi và suy giảm xuống 1.0 vào khoảng 37 tuổi. Bước vào độ tuổi mãn kinh, chỉ số AMH có thể giảm dần cho đến khi không còn có thể đo bằng xét nghiệm.

Phụ nữ độ tuổi sinh sản nên xét nghiệm để kiểm tra dự trữ buồng trứng

Thông thường chỉ số dự trữ buồng trứng cao nhất ở nữ giới 25-30 tuổi và giảm dần theo thời gian. Phụ nữ khỏe mạnh dưới 38 tuổi có nồng độ AMH bình thường dao động 2.0-6.8ng/ml (14,28-48,55 pmol/L).

Tuy nhiên nếu vợ chồng cố gắng mang thai trong thời gian dài (1 năm đối với trường hợp phụ nữ dưới 35 tuổi và 6 tháng đối với phụ nữ trên 35 tuổi), tần suất quan hệ đều đặn (2-3 lần/tuần) mà không có thai nên thăm khám sớm tại các bệnh viện, cơ sở y tế uy tín. Sau khi khai thác tiền sử bệnh cặp vợ chồng, bác sĩ sẽ chỉ định thực hiện các xét nghiệm, siêu âm cần thiết, trong đó có đo dự trữ buồng trứng ở người vợ.

Vấn đề suy giảm dự trữ buồng trứng, đặc biệt ở phụ nữ trẻ có xu hướng gia tăng. Giảm dự trữ buồng trứng thường được biểu hiện bằng tình trạng bất thường ở chu kỳ kinh nguyệt, rối loạn kinh nguyệt, vô kinh kéo dài, xuất hiện các triệu chứng thiếu hụt estrogen (viêm âm đạo do teo, giảm ham muốn, loãng xương), thay đổi tâm trạng. Điều này không chỉ làm giảm khả năng sinh sản mà còn ảnh hưởng tiêu cực các phương diện của đời sống, khiến nhiều chị em vụt mất cơ hội có con bằng chính trứng (noãn) của mình.

Khi nào chỉ định xin trứng (noãn)

Chỉ định xin noãn gồm:

  • Suy buồng trứng sớm.
  • Lớn tuổi.
  • Thất bại nhiều chu kỳ TTTON bằng noãn (trứng) tự thân.
  • Số lượng hay chất lượng noãn kém.
  • Có các bệnh lý về di truyền.

Vì mục đích nhân đạo, và mong muốn mang lại hạnh phúc cho các cặp vợ chồng mong con, không phải cặp vợ chồng nào cũng có thể áp dụng kỹ thuật này. Xin noãn chỉ được áp dụng cho các trường hợp mà nguyên nhân hiếm muộn đến từ phía người vợ, người chồng bắt buộc phải có tinh trùng tự thân.

Nếu bạn đã trải nghiệm và hài lòng với dịch vụ của chúng tôi, xin hãy mách nhỏ với bạn bè và người thân của mình. Trong trường hợp chưa hài lòng về dịch vụ đã nhận, xin vui lòng cho chúng tôi biết vấn đề của bạn qua:
Cơ sở 1: 400 Hải Thượng Lãn Ông – Thanh Hóa.
Cơ sở 2: 440 Trần Phú – Thanh Hóa.
Hotline/Zalo: 0919.329.400.
Website: 400clinic.com
Tiktok: @Phongkham400thanhhoa
Bạn cũng có thể đặt lịch hẹn nhanh chóng qua các kênh liên hệ trên nhé!
Chất lượng & sự hài lòng
`